Chú thích Dịch_Khuông

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Dịch Khuông.
  1. Dẫn theo tài liệu "Ngày tháng năm sinh của vương công đại thần từ năm Đạo Quang thứ 12 đến năm Tuyên Thống thứ 3".
  2. 1 2 Những năm Ung Chính, kỳ tịch của Tông thất (Cận chi) được chia theo "Tả dực" (gồm Tương Hoàng, Chính Bạch, Tương Bạch, Chính Lam) cùng "Hữu dực". Mỗi "dực" sẽ được chia làm 20 "Tộc" (như Tả dực có Tương Hoàng 1 tộc, Chính Bạch 3 tộc, Tương Bạch 3 tộc, Chính Lam 13 tộc). Vậy tổng cộng là 40 tộc với 40 Tộc trưởng. Đến những năm Càn Long, tất cả 40 tộc này được xếp vào "Viễn chi", thiết lập 16 "Tổng tộc trưởng". Mỗi Tổng tộc trưởng đều do đích thân Hoàng Đế bổ nhiệm, có thể không thuộc kỳ mình quản lý.
  3. "Tam nhãn" chính là ba "con mắt" trên chiếc lông gắn trên mũ của quan viên và Tông thất.
  4. Những năm Ung Chính, kỳ tịch của Tông thất (Cận chi) được chia theo "Tả dực" (gồm Tương Hoàng, Chính Bạch, Tương Bạch, Chính Lam) cùng "Hữu dực". Mỗi "dực" sẽ được chia làm 20 "Tộc" (như Tả dực có Tương Hoàng 1 tộc, Chính Bạch 3 tộc, Tương Bạch 3 tộc, Chính Lam 13 tộc). Ở mỗi "Tộc" như vậy sẽ thiếp lập 1 "Tộc trưởng", 1-3 "Học trưởng" tùy theo nhân khẩu của Kỳ. Đến những năm Càn Long đã quy định lại: 40 tộc "Cận chi" được chia trước đây trở thành "Viễn chi Tông thất", lại thiết lập vài cái "Cận chi" mới. Sau tiếp tục quy định, Cận chi chia làm 6 tộc, Tả dực 2 tộc, Hữu dực 4 tộc. Mỗi tộc thiết lập 1 Tộc trưởng, 2 Học trưởng.
  5. Tổng lý các quốc sự vụ nha môn (總理各國事務衙門, tiếng Mãn: ᡤᡝᡵᡝᠨ
    ᡤᡠᡵᡠᠨ ‍ᡳ
    ᠪᠠᡳᡨᠠ ᠪᡝ
    ᡠᡥᡝᡵᡳᠯᡝᠮᡝ
    ᡳᠴᡳᡥᡳᠶᠠᡵᠠ
    ᠶᠠᠮᡠᠨ, Möllendorff: geren gurun i baita be uherileme icihiyara yamun, Abkai: geren gurun-i baita-be uherileme iqihiyara yamun), giản xưng Tổng lý Nha môn, là một cơ quan tương tự Bộ ngoại giao mà triều đình nhà Thanh cố gắng dựng lên giai đoạn Hậu kì, đảm nhiệm việc ngoại giao và thúc đẩy hiện đại hóa.
  6. 四团正龙补服, một loại áo thụng lễ phục chỉ dùng cho Hoàng thất
  7. Tái Y (載漪, tiếng Mãn: ᡯᠠᡳ
    ᡳ, Möllendorff: Dzai I, Abkai: Zai I, 26 tháng 8 năm 1856 - 24 tháng 11 năm 1922) con trai của Đôn Thân vương Dịch Thông.